Rối loạn lo âu xã hội là một trạng thái sức khoẻ tâm thần khá phổ biến hiện nay. Đây là một dạng rối loạn tâm lý khiến người bệnh luôn cảm thấy lo lắng, sợ hãi trong các tình huống xã hội. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về trạng thái này, từ đó có thể nhận biết, đối mặt và vượt qua nỗi ám ảnh này.
Rối loạn lo âu xã hội hay còn gọi là “nỗi ám ảnh xã hội” là nỗi sợ dai dẳng về một hoặc nhiều tình huống xã hội có thể xảy ra sự xấu hổ và nỗi sợ hãi hoặc lo lắng không tương xứng với mối đe dọa thực sự do tình huống xã hội gây ra theo quy định, chuẩn mực văn hóa của người đó đang sinh sống.
Bất cứ khi nào có thể, những người mắc chứng ám ảnh xã hội sẽ cố gắng tránh những tình huống mà họ sợ nhất. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng khả thi và sau đó họ sẽ phải chịu đựng tình huống đó, thường là với cảm giác đau khổ tột độ. Tình trạng này sẽ gây ra suy giảm đáng kể trong các lĩnh vực hoạt động xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực khác.
Trẻ em có thể biểu hiện sự lo lắng của mình hơi khác so với người lớn. Ngoài việc thu mình lại trước các tương tác, trẻ có thể dễ khóc hoặc “đứng im” hoặc có những hành vi bộc phát như cơn giận dữ. Trẻ cũng có thể ít có khả năng thừa nhận nỗi sợ hãi của mình ở một tình huống xã hội nào đó. Những tình huống cụ thể có thể gây khó khăn cho trẻ em và thanh thiếu niên lo lắng về mặt xã hội bao gồm: tham gia các hoạt động trong lớp học, nhờ giúp đỡ trong lớp, các hoạt động với bạn bè (như thể thao đồng đội hoặc tham dự các bữa tiệc và câu lạc bộ), tham gia các buổi biểu diễn ở trường.
Các yếu tố di truyền dường như đóng một vai trò, nhưng gen có thể ảnh hưởng đến khả năng phát triển bất kỳ rối loạn lo âu hoặc trầm cảm nào thay vì phát triển lo âu xã hội nói riêng.
Tỷ lệ mắc chứng ám ảnh xã hội cao hơn ở những người thân của những người mắc tình trạng này so với những người thân của những người không mắc tình trạng này và tác động này mạnh hơn đối với phân nhóm tổng quát.
Tuy nhiên, ước tính về khả năng di truyền chỉ là 25 đến 50%, cho thấy các yếu tố môi trường cũng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của tình trạng này đối với nhiềddđu người.
Mô hình cha mẹ về nỗi sợ hãi và sự tránh né trong các tình huống xã hội cộng với phong cách nuôi dạy con cái quá mức đều có liên quan đến sự phát triển của tình trạng này trong một số nghiên cứu.
Tỷ lệ dân số mắc chứng rối loạn lo âu xã hội ở trẻ em và thanh thiếu niên đã được nghiên cứu ở một số quốc gia. Giống như trong các nghiên cứu ở người lớn, một loạt các phương pháp đã được sử dụng để chẩn đoán, điều này có thể giải thích cho sự thay đổi lớn trong ước tính tỷ lệ mắc bệnh.
Một nghiên cứu lớn ở New Zealand báo cáo rằng 11,1% thanh thiếu niên 18 tuổi đáp ứng các tiêu chí của chứng ám ảnh xã hội (Feehan và cộng sự, 1994). Tuy nhiên, một cuộc khảo sát dịch tễ học lớn của Anh (Ford và cộng sự, 2003) báo cáo rằng chỉ có 0,32% trẻ em từ 5 đến 15 tuổi mắc chứng rối loạn này.
Một nghiên cứu lớn có trụ sở tại Hoa Kỳ đã báo cáo tỷ lệ rất giống nhau ở trẻ em từ 9 đến 11 tuổi (Costello và cộng sự, 2003), trong khi một nghiên cứu của Đức ước tính tỷ lệ là 4% đối với trẻ em từ 14 đến 17 tuổi (Wittchen và cộng sự, 1999).
Rối loạn lo âu xã hội thường bắt đầu ở thời thơ ấu hoặc thanh thiếu niên. Tuổi khởi phát trung bình là từ đầu đến giữa tuổi thiếu niên và hầu hết mọi người phát triển tình trạng này trước khi họ đến tuổi 20. Tuy nhiên, có một nhóm nhỏ những người phát triển tình trạng ám ảnh xã hội ở giai đoạn sau này.
Một số người có thể xác định được thời điểm cụ thể khi rối loạn lo âu xã hội của họ bắt đầu và có thể liên hệ rối loạn đó với một sự kiện cụ thể (ví dụ: chuyển đến một trường học mới hoặc bị bắt nạt hoặc bị trêu chọc).
Những người khác có thể mô tả bản thân họ luôn nhút nhát và coi tình trạng của họ là sự trầm trọng dần dần nhưng rõ rệt về sự lo lắng của họ khi tiếp cận hoặc bị người khác tiếp cận. Những người khác có thể không bao giờ nhớ lại thời điểm họ thoát khỏi chứng lo âu xã hội.
Khi kết hợp các nghiên cứu triển vọng ở người lớn và trẻ em, có vẻ như một số lượng lớn những người mắc chứng ám ảnh xã hội ở tuổi vị thành niên có thể hồi phục trước khi đến tuổi trưởng thành. Tuy nhiên, nếu chứng rối loạn lo âu xã hội kéo dài đến tuổi trưởng thành, khả năng hồi phục nếu không được điều trị là rất khiêm tốn khi so sánh với các rối loạn tâm thần phổ biến khác.
Rối loạn lo âu xã hội không nên nhầm lẫn với sự nhút nhát bình thường, cũng không liên quan đến khuyết tật. Thành tích học tập có thể bị suy yếu, với những cá nhân có nguy cơ cao bỏ học sớm và khả năng tiếp thu kém hơn.
Nỗi sợ xã hội cũng có thể ảnh hưởng đến nhiều hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như đi mua sắm, mua quần áo, cắt tóc và sử dụng điện thoại… Phần lớn những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội đều có việc làm; tuy nhiên, họ nghỉ làm nhiều ngày hơn và kém năng suất hơn.
Những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội có sự khác biệt đáng kể về số lượng và loại tình huống xã hội mà họ sợ hãi cũng như về số lượng và phạm vi của những hậu quả mà họ sợ hãi.
Hai đặc điểm này (những tình huống đáng sợ và những hậu quả đáng sợ) có thể thay đổi độc lập. Ví dụ, một số người chỉ sợ một hoặc hai tình huống nhưng lại sợ nhiều về hậu quả (chẳng hạn như “Tôi sẽ đổ mồ hôi”, “Tôi sẽ tỏ ra vô năng”, “Tôi sẽ đỏ mặt”, “Tôi sẽ nghe có vẻ ngu ngốc” hoặc “Tôi sẽ lo lắng”). Những người khác có thể sợ nhiều tình huống nhưng chỉ sợ một kết quả (chẳng hạn như “Tôi sẽ đỏ mặt”).
Một số phân nhóm đã được đề xuất, một số trong đó được xác định bởi những kết quả đáng sợ cụ thể (sợ đỏ mặt, sợ đổ mồ hôi, v.v.). Sự khác biệt phổ biến nhất là giữa rối loạn lo âu xã hội chung với các cá nhân sợ phạm vi tình huống hạn chế hơn (nhưng không phải lúc nào cũng liên quan đến các nhiệm vụ thực hiện như nói trước công chúng); tuy nhiên, một số tác giả cho rằng sự khác biệt giữa các phân nhóm này là sự khác biệt về mức độ.
Phân nhóm tổng quát cũng có sự tập hợp về yếu tố gia đình, tuổi khởi phát sớm và diễn biến mạn tính hơn. Trong khi hầu hết các liệu pháp tâm lý được áp dụng cho cả hai phân nhóm, thì các đánh giá về phương pháp điều trị bằng thuốc chủ yếu tập trung vào rối loạn lo âu xã hội tổng quát.
Rối loạn lo âu xã hội có thể điều trị bằng liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) hoặc thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (hay SSRI hoặc thuốc chẹn beta).
Trị liệu nhận thức hành vi (CBT) là hình thức điều trị tâm lý bằng cách hướng người bệnh thay đổi suy nghĩ, dừng các kiểu hành vi có hại.
Điều trị bằng CBT có thể phải lặp lại nhiều lần, bằng cách trao đổi, đặt câu hỏi, bác sĩ chuyên khoa tâm thần hoặc chuyên gia tâm lý sẽ giúp người bệnh có một góc nhìn khác. Từ đó, người bệnh sẽ học được cách phản ứng tích cực, đối phó với căng thẳng, lo lắng và các tình huống khó khăn.
Thuốc chống trầm cảm có hiệu quả với chứng trầm cảm và rối loạn lo âu. Đây là hình thức điều trị hàng đầu cho chứng rối loạn lo âu xã hội.
Thuốc chống lo âu được sử dụng trong thời gian ngắn hơn. Ngoài ra, thuốc chẹn beta cũng được sử dụng cho các triệu chứng ám ảnh sợ xã hội. Cụ thể, các loại thuốc được sử dụng gồm:
Rối loạn lo âu xã hội đôi khi có thể khiến bạn cảm thấy cô lập và đơn độc. Tuy nhiên, bằng sự thấu hiểu về bản thân, sự hỗ trợ từ những người xung quanh và các phương pháp điều trị phù hợp, bạn hoàn toàn có thể vượt qua nỗi ám ảnh xã hội, tự tin hòa nhập và tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn hơn.
Tài liệu tham khảo: